BND218 – Stephen Hawking
Tiểu sử Giáo sư Stephen William Hawking
Thuận Hòa phỏng dịch theo tài liệu “About Stephen – Stephen Hawking”
từ link http://www.hawking.org.uk/about-stephen.html
Giáo sư Stephen Hawking, một trong những khoa học gia nổi tiếng của thời đại,
đã mất ngày 14 tháng 3 năm 2018 tại Cambridge, Anh Quốc, hưởng thọ 76 tuổi.
Thuận Hoà cầu nguyện cho Hương Linh của nhà khoa học sớm được về cõi Vĩnh Hằng.
_________________
Giáo sư Stephen William Hawking sinh ngày 8 tháng 1 năm 1942 (chính xác 300 năm sau cái chết của Galileo) tại Oxford, Anh. Nhà cha mẹ ông ở Bắc London nhưng trong thế chiến thứ hai, Oxford được xem là nơi an toàn hơn. Khi ông lên tám gia đình ông chuyển đến St. Albans, một thị trấn khoảng 20 dặm về phía bắc London. Năm mười một tuổi, Stephen học tại University College, Oxford (1952); trường đại học cũ của cha cậu. Stephen muốn nghiên cứu toán học mặc dù cha cậu muốn cậu học thuốc hơn. Toán học không có ở University College nên ông phải học vật lý thay thế. Sau ba năm và không khó khăn mấy, ông đã lấy được bằng cử nhân danh dự hạng nhất về khoa học tự nhiên.
Vào tháng 10 năm 1962, Stephen đến Khoa Toán học Ứng dụng và Vật lý Lý thuyết (DAMTP) tại Đại học Cambridge để nghiên cứu về vũ trụ học vì lúc đó không có ai nghiên cưu ngành nầy tại Oxford. Sau khi lấy bằng Tiến sĩ (1965) với luận văn có tiêu đề ‘Properties of Expanding Universes’, ông trở thành nghiên cứu sinh (1965) sau đó trở thành hội viên chính thức (1969) ở Gonville & Caius college. Năm 1966, ông đoạt giải Adams cho bài luận của ông về ‘Singularities and the Geometry of Space-time’. Stephen chuyển đến Viện Thiên văn học (1968), sau đó trở về DAMTP (1973), làm trợ lý nghiên cứu và xuất bản cuốn sách đầu tiên của ông cùng với George Ellis ‘The Large Scale Structure of Space-Time’. Vài năm sau, Stephen được bầu làm Uỷ viên Hội Hoàng gia (1974) và hội viên của hội mang tên học giả nổi tiếng Sherman Fairchild tại Học viện Công nghệ California (1974). Ông trở thành nhà tham khảo (1975) và sau đó trở thành giáo sư (1977) về Vật lý Hấp dẫn tại DAMTP (1975. Sau đó ông được cử làm Giáo sư Lucasian về Toán học (1979-2009). Chức danh nầy được thành lập vào năm 1663 với số tiền còn lại trong di chúc của Mục sư Henry Lucas. Chức danh nầy được giữ đầu tiên bởi Isaac Barrow và sau đó năm 1669 bởi Isaac Newton.
Giáo sư Stephen Hawking đã nghiên cứu về các luật cơ bản trong vũ trụ. Với Roger Penrose, ông cho rằng thuyết tương đối tổng quát của Einstein đã cho thấy không gian và thời gian có một khởi đầu trong Big Bang và chấm dứt ở các lỗ đen (1970). Những kết quả này cho thấy sự hợp nhất của thuyết tương đối rộng với lý thuyết lượng tử, sự phát triển khoa học lớn khác của nửa đầu của thế kỷ 20. Một hệ quả của sự thống nhất mà ông phát hiện ra là các hố đen không phải là màu đen hoàn toàn, mà nó phát ra bức xạ ‘Hawking’ và cuối cùng bay hơi và biến mất (1974). Một giả thuyết khác là vũ trụ không có cạnh hoặc ranh giới trong thời gian tưởng tượng. Điều này ngụ ý rằng cách vũ trụ bắt đầu hoàn toàn được xác định bởi luật khoa học. Gần đây Stephen đã cùng các đồng nghiệp nghiên cứu tìm một giải thích khả thi về nghịch lý thông tin của lỗ đen.
Nhiều tác phẩm của ông bao gồm ‘The Large Scale Structure of Spacetime ‘với G F R Ellis, ‘General Relativity: An Einstein Centenary Survey’ với W Israel, và ‘300 Years of Gravitation’ với W Israel. Trong số những sách bình dân đã xuất bản của Stephen Hawking có các sách bán chạy nhất là ‘A Brief History of Time’, ‘Black Holes and Baby Universes’, và các bài viết khác: ‘The Universe in a Nutshell’ , ‘The Grand Design’, và ‘My Brief History’.
Giáo sư Stephen Hawking có mười ba lần được vinh danh. Ông được trao giải CBE (1982), Companion of Honour (1989), và Huân chương Tự do của Tổng thống (2009). Ông là người nhận được nhiều ban thưởng, huy chương và giải thưởng, đáng chú ý nhất là giải Fundamental Physics ( 2013), Coply Medal (2006) và giải Wolf Foundation (1988). Ông là một thành viên của Royal Society và là thành viên của US National Academy of Sciences, và the Pontifical Academy of Sciences.
Năm 1963, Stephen được chẩn đoán là bị bệnh ALS, một dạng bệnh về thần kinh vận động, ngay sau khi sinh nhật lần thứ 21 của mình. Stephen vẫn tiếp tục kết hợp cuộc sống gia đình (ông có ba người con và ba đứa cháu) với nghiên cứu của ông về vật lý lý thuyết, cộng thêm một chương trình du lịch và các bài giảng công cộng rộng rãi.
=============
Stephen Hawking, người từng khước từ một bản án tử hình
Mạnh Kim
Stephen Hawking (1942-2018)
Stephen Hawking, một trong những nhân vật ngoại hạng vĩ đại nhất thế giới, vừa từ trần ở tuổi 76. Sinh ngày 8 Tháng Giêng, 1942 (300 năm sau cái chết của Galileo) tại Oxford (Anh), Hawking là bậc thầy về vật lý vũ trụ.
Một trong những khám phá quan trọng ban đầu của Stephen Hawking là các lỗ đen không hoàn toàn đen mà chúng phát ra phóng xạ rồi cuối cùng “bốc hơi” và biến mất. Tuy bệnh tật trầm trọng, Hawking đã viết nhiều công trình nghiên cứu vĩ đại mà “Brief history of time” là tác phẩm nổi tiếng nhất. Sống trọn đời trên chiếc xe lăn, Hawking đã chứng minh rằng nghị lực phi thường có thể vượt qua tất cả. Hawking đã bộc bạch về một phần của đời mình và những vất vả mà ông lướt qua.
Ông kể…
Người ta thường hỏi rằng tôi có tâm trạng như thế nào khi sống với căn bệnh teo cơ ALS (amyotrophic lateral sclerosis). Chẳng có gì nhiều để trả lời. Tôi cố sống như bình thường, không nghĩ về tình trạng bệnh tật và quên đi những rào cản mà căn bệnh đưa đến.
Tôi thật sự bị choáng khi biết rằng mình mắc phải chứng bệnh liên quan đến tế bào thần kinh vận động. Hồi nhỏ, thể lực tôi đã không được khỏe. Tôi không thể chơi tốt các môn thể thao, còn chữ viết thì lúc nào cũng làm thầy cô khó chịu. Tuy nhiên, những điều này đã thay đổi khi tôi vào Đại Học Oxford. Tôi tham gia vào trò chèo thuyền và thậm chí còn thi đấu ở các giải liên trường. Năm thứ ba đại học, tôi bắt đầu nhận thấy đầu mình hay bị choáng. Tôi gần như không thể kiểm soát sự vận động của mình, bởi thế có khi tự nhiên tôi ngã. Năm sau, bố đưa tôi đi chẩn đoán, vài ngày sau lần sinh nhật thứ 21 của tôi. Hai tuần liên tiếp tại một bệnh viện, tôi trải qua nhiều cuộc xét nghiệm. Người ta lấy cơ từ tay, gắn điện cực vào người và chích một thứ chất lỏng vào cột sống tôi. Bác sĩ chẳng nói rõ cho tôi biết mình mắc bệnh gì. Tuy nhiên, tôi đoán rằng tình trạng bệnh tật mình rất xấu và họ không thể làm gì để chữa trị, trừ việc cho tôi vài viên vitamin.
Khi linh cảm mình mắc phải chứng bệnh vô phương cứu chữa, tôi có cảm giác như mình đang chết lần mòn. Làm thế nào chuyện như thế lại xảy ra và tại sao tôi không thể thoát khỏi nó? Nỗi buồn ám ảnh như bóng ma, cho tới một hôm, khi tôi thấy một cậu bé đang hấp hối vì bệnh bạch cầu, nằm đối diện giường tôi. Đó là cảnh tượng thật đáng thương. Rõ ràng, có nhiều người khác còn kém may mắn hơn mình. Dù sao, căn bệnh ALS không làm cho tôi đau đớn nhiều. Từ đó về sau, cứ mỗi lần tư tưởng bi quan xuất hiện thì lập tức tôi nghĩ đến cậu bé đó. Ít lâu sau, bác sĩ cho tôi xuất viện và nói rằng cứ tiếp tục nghiên cứu những đề tài về vũ trụ còn dang dở. Tôi tiến triển chậm trên con đường nghiên cứu vì thiếu nền tảng toán học…
Giấc mơ về cuộc đời tôi lúc còn trẻ rất mơ hồ. Trước khi được chẩn đoán mắc bệnh, tôi cảm thấy không hứng thú với cuộc sống. Dường như chẳng có gì đáng để làm. Rồi sau khi xuất viện, tôi thấy như mình sắp bị hành hình. Bỗng nhiên lúc đó tôi nhận ra rằng có rất nhiều điều đáng để thực hiện nếu bản án tử hình của tôi được hoãn lại. Như thế, dù sao, tôi cũng làm được gì đó cho cuộc sống trước khi mình chết. Cảm giác ham sống tràn ngập tim tôi và công trình nghiên cứu bắt đầu tiến triển nhanh hơn. Tôi càng cảm thấy ham sống khi đính hôn với cô gái mà tôi đã gặp vào thời điểm căn bệnh được phát hiện. Cuộc đính hôn với Jane Wilde làm thay đổi cuộc đời tôi. Tôi nộp đơn gia nhập hội đồng nghiên cứu thuộc Đại Học Caius (Cambridge). Thật ngạc nhiên, đơn xin của tôi được chấp thuận.
Tôi chọn vật lý lý thuyết vì ngành này phù hợp với tình trạng bệnh tật của mình. Các đề tài của tôi ngày càng gây tiếng vang và đó cũng là lúc bệnh tình mỗi lúc mỗi xấu. Sau khi lập gia đình, chúng tôi rất vất vả trong việc tìm nhà ổn định chỗ ở vì lý do tài chính. Cuối cùng, với sự giúp đỡ của bố mẹ tôi, chúng tôi cũng mua được một căn hộ. Trước năm 1974, tôi vẫn còn tự ăn uống được và có thể lên xuống giường mà không cần ai giúp đỡ. Tuy nhiên, càng về sau, chứng teo cơ ngày càng phát triển mạnh. Cái nhìn về tương lai tôi lại nhuốm màu đen. Tuy nhiên, Jane đã an ủi tôi rất nhiều. Cô ấy là nguồn động viên cho tôi sinh lực sống. Tôi lại nhỏm dậy và lao hết mình vào các công trình nghiên cứu. Những đêm buồn bã đã trở thành những đêm tràn ngập các con số và bài toán. Công việc của Jane bận rộn nhiều hơn khi chúng tôi có con. Cuối cùng, gia đình tôi phải nhờ sự giúp đỡ của các sinh viên. Chúng tôi cung cấp cho họ chỗ trọ và họ giúp tôi làm việc nhà. Năm 1980, gia đình tôi thuê một số y tá tư, đến giúp việc một hay hai giờ vào buổi sáng và buổi chiều. 5 năm sau, tôi bị bệnh phổi và phải chịu ca phẫu thuật thông khí quản. Sau đó, tôi buộc phải chịu sự chăm sóc 24/24 vì không thể tự làm bất cứ chuyện gì, kể cả việc bước lên giường.
Trước ca phẫu thuật thông khí quản, tôi bắt đầu gặp trở ngại với việc phát âm. Chỉ có những người rất thân và gần gũi mới hiểu được tôi nói gì. Dù sao, tôi cũng còn giao tiếp được. Tôi soạn tài liệu khoa học bằng cách đọc cho một cô thư ký viết lại. Tôi diễn giảng thông qua một “thông dịch viên” và người đó đọc lại các câu nói của tôi với giọng rõ ràng hơn. Sau ca phẫu thuật, tôi không thể nói được nữa. Phương pháp giao tiếp và truyền đạt duy nhất trong thời gian này là tôi “đánh vần” từng từ, bằng cách nhướng chân mày khi thư ký chỉ đúng vào mẫu tự trên tấm bảng chữ cái. Thật khó có thể giao tiếp bằng lối này và càng khó khăn bội phần khi muốn viết tài liệu khoa học. Tôi không thể không nghĩ đến đám mây đen che phủ cuộc đời mình. Định mệnh cay độc dường như không chịu buông tha tôi.
Tuy nhiên, cứ mỗi lần định mệnh giáng một cú đấm đau điếng xuống đời tôi, thần may mắn lại giang tay giúp đỡ. Một chuyên gia về máy tính tên Walt Woltosz đã gửi cho tôi chương trình máy tính gọi là Equalizer, cho phép tôi chọn từ trên màn hình bằng cách nhấn nhẹ vào cái nút cầm ở tay. Chương trình này cũng được điều khiển bằng một cái nút khác, hoạt động khi cảm nhận sự chuyển động của chân mày hay cái gật đầu. Khi thiết dựng xong những gì cần nói, tôi có thể gửi câu hay cụm từ này sang một máy phân tích âm điệu. Thoạt đầu, tôi chỉ có thể điều khiển chương trình Equalizer trên một cái máy tính để bàn.
Sau này, David Mason – chuyên gia về kỹ thuật thông tin thuộc hãng Cambridge Adaptive Communication – đã gắn một máy tính xách tay và bộ phân tích âm điệu vào ngay cái xe lăn của tôi. Việc này đem lại tiện lợi và tôi có thể giao tiếp dễ dàng hơn trước nhiều. Tôi có thể “nói” đến 15 từ trong một phút. Tôi có thể “nói” hoặc “viết” bằng bộ thiết bị trên rồi lưu vào đĩa mềm để có thể in ra giấy. Tôi đã viết sách bằng cách này. Tôi rất hài lòng với thiết bị phân tích âm điệu của hãng Speech Plus, chỉ duy có điểm là nó làm cho tôi nói bằng giọng Mỹ chứ không phải giọng Anh! (Người vợ thứ hai Elaine của Hawking là vợ cũ của David Mason)…
Tôi đã mắc một chứng bệnh khiến tế bào thần kinh vận động không làm việc, trong suốt cuộc đời mình. Tuy nhiên, căn bệnh đã không thể ngăn tôi được chuyện có một gia đình hạnh phúc và không thể cản trở tôi trên bước đường nghiên cứu khoa học một cách thành công. Tôi cảm ơn vợ tôi, các con tôi và rất nhiều cá nhân cũng như tổ chức. Điều đó cho tôi thấy rằng người ta không nên từ bỏ hy vọng quá sớm. Định mệnh có thể bước sang lối đi khác, sáng sủa hơn, khi chúng ta không vội vã bi quan trước những rào cản cuộc đời.
*
Để hình dung cuộc đời ngoạn mục của một người phi thường hơn cả phi thường như Hawking, xin xem lại kiệt tác điện ảnh “The Theory of Everything” với diễn xuất xuất sắc của tài tử Eddie Redmayne.