Đau buồn nhận được tin
Cụ Nguyễn Đức Hiếu
Pháp danh Thiện Đức Chánh Giáo
Đã mệnh chung ngày 7 tháng 3 năm 2013
Tại Sacramento, California
Hưởng thọ 99 tuổi
Chúng tôi, gồm các cựu giáo sư và cựu học sinh trường trung học
Hồ Ngọc Cẩn, Gia Định, hiện cư ngụ tại Úc Châu
Xin có lời chia buồn cùng tang quyến và
Cầu nguyện cho hương linh của người quá vãng được siêu sinh về miền Cực Lạc.
* * *
Tưởng niệm về cuộc đời của cụ Nguyễn Đức Hiếu
(trích từ Bản Tin HNC, số 15, tháng 11 năm 2007.
Mừng thượng thọ 90 thầy Hiệu trưởng Nguyễn Đức Hiếu
Môn sinh ba trường Hồ Ngọc Cẩn, Chu Văn An và Châu Văn Tiếp đã tổ chức một buổi họp mặt đón mừng thượng thọ 90 của thầy Nguyễn Đức Hiếu tại nhà hàng Thành Được, vùng Milpitas, thung lũng hoa vàng Bắc Cali vào ngày 1 tháng Bảy vừa qua.
Khí hậu Bắc Cali vào lúc này thật là lý tưởng cho họp mặt. Trời nắng ấm thật dễ chịu. Cóc Tu tôi 10 giờ sáng đã ba lô sẵn sàng trên vai, trực chỉ rồi loanh quanh đi bộ đến nhà hàng. Các bạn tại đây đề nghị tới khách sạn đón vì từ khách sạn tới nhà hàng xa, nhưng Cóc tôi muốn được đi bộ để có thì giờ thấy tận mắt quang cảnh thành phố sớm sáng Chủ Nhật, cùng để các bắp thịt có cơ hội làm việc. Đường đi nào có xa gì, không đầy hai dặm, nghĩa là chưa đến ba cây số, nhưng phải mất hơn 40 phút mới tới. Phần lo ngắm quang cảnh, chụp hình trên đường đi, phần coi lại tấm bản đồ lấy từ Google maps trước khi rời Úc để tránh chuyện lạc đường nơi xứ lạ.
Gần 11 giờ tới nơi, ban tổ chức đã xong công việc dàn dựng, chia bàn, đặt chỗ ngồi cho tất cả, từ thầy cô, quan khách, thân hữu, môn sinh, tới học trò ba trường. Các anh Tiếp, Cơ, Dần, cùng các chị và các anh trong ban tổ chức lăng xăng, bận rộn trong công việc. Tấm biểu ngữ vàng mang hàng chữ đỏ “Lễ mừng thượng thọ 90 GS Hiệu Trưởng Nguyễn Đức Hiếu” cuối cùng được giăng lên nơi sân khấu, đánh dấu việc sửa soạn hoàn tất.
Không biết tại vì học được sự đúng giờ của nền văn hoá Âu Mỹ, hay vì học được sự làm việc nghiêm chỉnh của thầy Hiếu, ban tổ chức đã làm việc thật đúng giờ giấc. Đúng 11 giờ 30, tất cả đã sẵn sàng chờ đợi vị khách quý của buổi lễ. Mấy phút sau, xe chở thầy Hiệu trưởng đến. Một vài môn sinh của thầy đã ra tận xe để tiếp đón cùng dìu thầy vào nhà hàng.
Sau phần hàn huyên, trò truyện với quý thầy cô, quan khách cũng như môn sinh, thầy Hiệu trưởng cùng cô được đưa đến chỗ ngồi ngay bên sân khấu. Anh Phạm Phú Nam, môn sinh Hồ Ngọc Cẩn nhỏ nhất của thầy mở đầu chương trình. Anh giới thiệu một số môn sinh cùng năm với anh, hy vọng rằng nhóm này sẽ tiếp nối tinh thần tôn sư trọng đạo trong tương lai. Anh nói lên niềm hân hạnh cùng vinh dự được đề cử điều khiển chương trình. Sau phần thủ tục, anh giới thiệu anh Phan Quang Cơ lên sân khấu khai mạc buổi lễ.
Anh Phan Quang Cơ cho biết, anh được chỉ định lên chào đón vì những liên hệ mật thiết của anh. Ngoài việc học tại hai trường Hồ Ngọc Cẩn và Chu Văn An, anh còn là dưỡng tử của thầy, cùng rể trường bạn cùng tỉnh. Anh ngỏ lời chào đón quan khách, anh chị em học sinh ba trường cùng các dâu Lê Văn Duyệt. Mặc dù kinh nghiệm nói trước công chúng có thừa, nhưng trước những học trò chỉ thua có quỷ, ma, anh đã “khớp” mà đọc lộn tên thầy những hai lần.
Anh Nam cho biết hôm nay không chỉ có sự hiện diện của quý thầy cô cùng môn sinh ba trường, còn có quý vị từ các trường trong số 17 trường thầy đã dạy. Anh giới thiệu Hội trưởng Hội Ái Hữu Hồ Ngọc Cẩn tại Bắc Cali Nguyễn Mạnh Dần.
Anh Dần giới thiệu thành phần ban tổ chức, gồm có các anh chị học sinh ba trường, cùng con cháu của thầy. Anh cũng giới thiệu quý khách từ phương xa, thầy Phạm Nguyễn Chu từ Texas, thầy Nguyễn Văn Rớt cùng phu nhân từ Seattle, cô Đái Thị Minh từ San Diego đi xe đò lên, cô Lê Thị Hoàng cùng phu quân và ái nữ, thầy Trịnh Văn Tuấn từ Việt Nam. Anh xin được thay mặt cho toàn thể đồng nghiệp cùng môn sinh của thầy chúc thầy được luôn luôn mạnh khỏe, cùng được hưởng tất cả những phúc đức mà thầy đã làm trong suốt cuộc đời thầy. Anh cũng nói qua về quá trình hoạt động của Hội Ái Hữu HNC tại Bắc Cali, nhất là trang nhà, quỹ tương trợ HNC và Bản Tin HNC.
Sau đó, thầy Phạm Thư, với danh nghĩa giáo sư hướng dẫn Hội, đã phát biểu cảm tưởng. Thầy xin mạn phép quý đồng nghiệp và môn sinh của thầy chúc mừng thầy Hiệu trưởng được trường thọ, dồi dào sức khỏe. Sau đó thầy giới thiệu vị khách quý của buổi lễ, thầy Hiệu trưởng Nguyễn Đức Hiếu. Thầy cũng ngợi khen anh em ba trường đã làm một công việc mà tất cả mọi chúng ta đều mong muốn thực hiện.
Qua phần nghi thức kế tiếp, anh Dần đã mời hai anh Tiếp và Định dìu thầy Hiệu trưởng lên sân khấu để kính tặng thầy quà lưu niệm.
Thầy Trương Toại tiếp nối chương trình. Thầy cho biết thầy có vinh dự vừa là đồng môn, vừa là đồng nghiệp, vừa là môn sinh của thầy Hiếu qua hơn 50 năm. Thầy cũng có liên hệ với cả ba trường. Thầy kính dâng lên thầy Hiệu trưởng tám chữ học nhi bất yếm, giáo nhi bất nguyện. Thầy kể lại những kỷ niệm xưa với thầy Hiếu, cùng đọc lên một bài thơ Chúc mừng thầy cửu tuần khánh thọ tặng thầy Hiệu trưởng.
Sau đó, ông Lê Duy San đại diện trường Chu Văn An nêu lên cái phẩm mà các môn sinh đã nhận được từ thầy Hiệu trưởng, bởi vì không những thầy đã dạy dỗ không những trí dục mà còn đức dục, và hơn hết là cái tinh thần của người học sinh biết yêu và luôn luôn hướng về tổ quốc. Ông cũng mong là luôn luôn học và giữ được những tư tưởng mà thầy đã truyền dạy cho môn sinh.
Tiếp nối chương trình, đại diện Hội Ái Hữu trường Châu Văn Tiếp, ông Nguyễn Hữu Nhân, nhắc lại thời gian thầy dạy ở trường từ 1957 đến 1962, qua môn Việt Văn, với Nhị Thập Tứ Hiếu, Cung Oán Ngâm Khúc, Thúy Kiều, và nhất là bài Kẻ Sĩ của Nguyễn Công Trứ, tạo cho môn sinh một số vốn liếng để vào đời. Ông kể lại bài thơ Hạ Sơn của thầy đã tặng ông, mà đã được thầy dịch sang tiếng Anh. Sau ông Nhân, giáo sư Chu Xuân Khang chúc thầy cô luôn được dồi dào sức khỏe, và hẹn gặp lại thầy cô ở thượng thọ 100.
Trong phần đáp từ, mặc dù thầy đã cao tuổi, đi đứng khó khăn, thầy vẫn trân trọng với những lời vàng ngọc. Thầy nhắc đến tất cả đều nhờ ở cụ Nguyễn Khắc Kham, thầy dạy của chính thầy, đã dẫn đạo cho thầy.
Thầy nói:
Quý thầy cô cùng môn sinh trong tiệc mừng thượng thọ 90 của thầy Hiệu trưởng Nguyễn Đức Hiếu
Trước hết, tôi xin được cảm ơn tất cả các quý đồng nghiệp, đã đối với chúng tôi với tình thương đặc biệt, mà đến đây để mừng chúng tôi hãy còn sống ở trên đời, để được hưởng những giờ phút này. Quý vị vừa rồi có cho chúng tôi được biết rằng chúng tôi đã cư xử và đối với các quý vị được như là chúng tôi mong muốn. Những điều đó, chúng tôi không dám nhận là của chúng tôi. Cái đó là của thầy tôi, là cụ Nguyễn Khắc Kham, đã dạy tôi. Cụ không những dùng lời để nói với học trò, mà nhiều khi cụ dùng cái thân của cụ và cái tâm của cụ để thương yêu học trò và thương yêu đồng nghiệp của mình. Cụ Kham là người đã dẫn đạo cho tôi, và khi cụ lìa trần, một vị đã lên đọc ai điếu, chúng tôi đã khóc cụ và vị đó đã không nói được hết. Chúng tôi nói, thầy ơi, chúng con không bao giờ mất thầy, bây giờ, con trông như thầy đứng trước mặt con. Đó là thầy tôi như thế. Trước kia, khi thầy tôi gặp tôi sau 60 năm, thầy tôi gọi tôi bằng cụ, tôi có nói rằng, thưa thầy, con là học trò thầy, xin thầy tha cho con cái chữ cụ. Thầy tôi đã nói với tôi như thế này, xin quý vị nhớ giùm cho tôi, để cho tôi được yên tâm với hương linh của thầy tôi. Thầy nói, xưa kia cụ là học trò tôi, bây giờ cụ là bạn tôi. Cái điều đó sống thì nhớ mà chết thì mang đi. Vì thế cho nên vừa rồi nghe quý vị nói đến các điều như thế, làm cho chúng tôi vừa rồi không thể nào, không thể nào cầm được nước mắt. Tôi cảm ơn quý vị đã hướng những tình cảm chân thành, rất là cao quý, đã ban cho tôi những lời mà chúng tôi không thể nào ở trong cõi đời này quên được, hay là những đời sau, tôi cố gắng không ăn cháo lú để có thể nhớ được lại tất cả những điều ngày hôm nay.
Tôi xin cảm ơn tất cả các quý vị, có những vị từ xa mà bây giờ đến đây để chúc mừng chúng tôi. Tôi xin cảm ơn tất cả những vị ở xa hơn nữa, đã gửi các thiệp để mừng chúng tôi. Chúng tôi xin cảm ơn tất cả các quý vị đã thương mà tới đây để ban cho tôi những giờ phút ngày hôm nay. Tôi xin cảm ơn tất cả các quý vị.
Lời đáp từ của thầy ngắn gọn, xúc tích, đã khiến toàn thể hiện diện đứng lên vỗ tay nhiệt liệt trong lúc thầy được hai môn sinh dìu về chỗ ngồi.
Qua phần tiệc, tất cả mọi người được thưởng thức các món ăn đặc biệt mà nhà hàng đã dành riêng. Quý vị ăn chay cũng được ban tổ chức trông nom chu đáo. Phần văn nghệ giúp vui không kém phần hào hứng, được mở đầu với nhạc phẩm Vào Hạ qua tiếng hát của bộ ba San José Bích Hợp, Hoàng Nga và Tuyết Trâm từ trường láng giềng Lê Văn Duyệt. Đặc biệt là chị Nguyễn Phan Ngọc An, học sinh Châu Văn Tiếp, đã ngâm bài thơ Hạ Sơn của thầy Hiệu trưởng.
Sau nhiều tiết mục văn nghệ giúp vui cây nhà, lá vườn khác, tất cả cùng đứng lên hát mừng sinh nhật thầy và thầy thổi nến bánh sinh nhật. Trong lúc cắt bánh, thầy đã nói:
Trước hết, tất cả quý vị cùng với những tình xưa, nghĩa cũ của tôi đã làm cho tôi cảm động rất nhiều. Nếu quý vị mà còn làm nữa là tôi xỉu đó. Tôi cũng muốn nói với những người mà tôi coi như là ruột thịt của tôi, ở Việt Nam sang đây, đây là ông Tuấn, là ruột thịt của tôi, là giáo sư trường Hồ Ngọc Cẩn. Từ xưa đến nay tôi vẫn coi là ruột thịt của tôi. Nhưng mà ở trong này còn biết bao là ruột thịt của tôi, nhưng mà tôi không thể chỉ mà nói ra từng người một. Xin quý vị nhận ở đây cái lòng ưu ái đặc biệt của tôi đối với các tình xưa, nghĩa cũ của tôi. Tôi bây giờ già rồi, chưa chắc có còn được bao nhiêu lâu nữa. Nhưng mà còn sống được ngày nào, thì những điều mà hôm nay tôi trông thấy, không thế nào tôi quên được. Và xin một lần nữa cảm ơn tất cả quý vị. Quý vị đã cho tôi thêm sức sống. Tôi không biết nói gì, hai tay chắp lại, tức là một cái hoa sen, tôi xin gửi đến quý vị, mỗi người một cái hoa sen.
Chương trình đã phải chấm dứt lúc 3 giờ chiều là giờ nhà hàng đóng cửa buổi trưa. Không một ai muốn dời chân, không một ai muốn xa tầm mắt nhìn thầy Hiệu trưởng. Những lời chia tay, những lời chúc khỏe, ánh sáng của máy ảnh liên tục không ngừng. Cóc tôi cảm nhận được tình sư đệ, tình đồng môn của những người liên hệ với mái trường xưa thật là nồng nàn, tha thiết. Trường tuy nhỏ, số học trò không nhiều, giỏi lắm được hơn 6 nghìn sau gần hai mươi năm hiện hữu nơi tỉnh Gia Định, nhưng có lẽ nhờ con số nhỏ mà chúng ta đã níu kéo tất cả lại gần nhau hơn, tương kính nhau hơn, không chỉ cho hiện tại, mà còn nhiều năm tháng tương lai.
Cóc Tu ghi lại
1 tháng Bảy, 2007
Nhớ Thầy Hiệu Trưởng
Lời tòa soạn – Một học trò của thầy Hiệu trưởng cách xa vạn dặm đã gửi bài dưới đây đến San José để đọc trong dịp lễ tiệc thượng thọ 90 của thầy. Tuy nhiên, vì thì giờ eo hẹp, ban tổ chức đã không thể đọc ngay trong buổi lễ tiệc. Ban biên tập chúng tôi xin được đăng trong Bản Tin 15 này.
Cách nay đã lâu lắm, vào mùa hè năm 1970 không có lễ “trao phần thưởng” cho học sinh xuất sắc như mọi năm, thay vào đó thầy Hiệu Trưởng tổ chức trại Nối Vòng Tay Lớn với cán bộ Xây Dựng Nông Thôn ở Vũng Tàu. Một buổi nọ có một nhóm học sinh nhỏ bỏ trại đi “lang thang trên đồi non” như trong một bài hát vào thời đó, với cây đàn ghi-ta, cả nhóm đi trên những đồi cát mịn trong một đêm trời trong và đầy sao sáng lấp lánh thật nên thơ. Lớp trẻ vừa đi về hướng sao Bắc Đẩu – ngôi sao đang sáng chói nhất lúc đó – hay là ngồi nhìn những lớp sóng sao trên bãi Dứa: …tôi như là con ốc, bơ vơ nằm trên cát, chui sâu vào thân xác lưu đày (trong “Nha Trang ngày về”).
Cả bọn đêm đó đã bị bắt quả tang, để rồi sáng hôm sau xếp hàng ngay ngắn chờ hình phạt từ thầy Hiệu Trưởng. Cả nhóm học trò phạm tội còn nhớ thầy đã không nói một tiếng nào, đứng trước mặt cả đám, vừa nhìn rất lâu từng đứa một như muốn nói một điều gì, vừa vuốt râu! Chỉ vậy rồi thôi. Không có bất kỳ một hình phạt gì và cả một lời mắng cũng không. Trại lại tiếp tục với cái bồng bột vỡ bờ của tuổi trẻ. Những kỷ niệm thật sâu sắc không thể quên: ăn cơm cát, lửa trại đêm, những đêm không ngủ…
Bây giờ hơn 35 năm đã trôi qua từ cái ngày hè năm ấy, hồi tưởng lại có thể nói là hình như lúc đó thay vì phạt thầy lại gần như đồng lõa với tuổi trẻ qua cái nhìn độ lượng và cách vuốt râu của thầy.
Trong khi đó thầy Hiệu Trưởng đã nhìn đám học trò “nhất quỷ nhì ma” như thế nào. Chúng ta hãy nghe thầy kể:
Tôi vẫn còn nhớ buổi trại “Nối Vòng Tay Lớn” có cả hai ông bà Chi Hoa giúp tổ chức trại (ông bà Nguyễn Chi Hoa hiện nay vẫn còn ở Pháp ).
Tôi cũng còn nhớ các cậu “xé rào”. Tôi cũng định phạt đấy vì theo kỷ luật trại. Nhưng tôi chợt nghĩ lại: hồi còn trẻ, ngồi ghế nhà trường, tôi cũng thế. Khi các cậu về đủ, tôi mừng rồi. Nếu phạt thì sẽ có người vui người buồn, tôi không muốn vậy. Cho nên “vuốt râu” bỏ qua để toàn trại được “vui vẻ cả làng”!
Tuy các cậu “xé rào” nhưng không đến nỗi làm tôi lo nhiều như khi được lệnh Bộ Giáo Dục hướng dẫn một ngàn học sinh khu III đi trại hè Nha Trang. Trong những giờ tắm biển, tôi phải nhờ phi cơ của quân khu Nha Trang bay vòng quanh bãi tắm, dợm chừng các học sinh bơi xa quá giới hạn. Nếu có thì phát thanh bắt họ quay về gần bờ biển. Khi được đủ số trở về Sài Gòn, tôi mới thở được những hơi thật dài thật thoải mái…
Khi ra ngoài thì thầy rất khoan dung độ lượng, nhưng khi về trường thì không ít học sinh Hồ Ngọc Cẩn quên được phòng “roi” với các kích thước lớn nhỏ để nạn nhân có nhiều chọn lựa tùy theo ý thích, roi càng nhỏ thì mũi roi càng đánh đau, mà vào cái tuổi thiếu kinh nghiệm đó thì đa số lại ngại roi to.
Các cựu học sinh bây giờ nhiều người đã bước vào tuổi ngũ thập tri thiên mệnh, con cái đã hoặc đang bước vào tuổi trưởng thành, nhất là với môi trường ở nước ngoài, quan niệm về hướng dẫn dạy dỗ con cái khác nhiều so với hơn 30 năm trước ở quê nhà, bây giờ mới nhớ nhiều đến những lời nhắn nhủ của thầy Hiệu Trưởng dưới mái trường xưa. Tất cả các cựu học sinh, không riêng gì trường Hồ Ngọc Cẩn, đều nhớ đến thầy như một người dẫn đường, một người cha nghiêm khắc nhưng cùng lúc rất cảm thông những trăn trở bâng khuâng của lớp tuổi vừa lớn trong giai đoạn đầy biến động của đất nước. Chúng ta hãy nghe thầy kể tiếp:
Tôi có nhiều tập lưu niệm của các trường trung học như Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Trần Hưng Đạo, Quang Trung, Hồ Ngọc Cẩn, Châu Văn Tiếp… kể cả trường Võ Bị Đà Lạt và các trường tư thục, trong số 20 trường tôi đã được duyên may hướng dẫn về văn hoá.
Trường tôi ở lâu nhất là Trung học Hồ Ngọc Cẩn, từ 1964 tới 1975 (8 năm coi việc trường, 2 năm làm Đặc Khu Trưởng Đặc Khu học chánh Sài gòn – Gia Định, 2 năm làm Thanh Tra Trung Học tại Bộ Quốc Gia Giáo Dục), vẫn được lưu trú tại công ốc của trường vì không có nhà riêng. Sinh vô gia cư. Hiện nay ở nhà do các con mua cho. Sau này cũng sẽ “bất cầu địa táng”.
Trong giai phẩm Xuân HNC Quý Sửu 1973 mà chúng tôi tìm lại được đã có vài hàng nói về thầy như sau:
Thầy Hiệu Trưởng sinh ngày 06-02-1920 tại Hải Dương. Thuở nhỏ theo học với bác ruột và thi vào trường Bưởi năm 1934. Năm 1938 đỗ trung học đệ I cấp, bỏ đệ Tam thi nhảy tú tài I và II. Thầy tiếp tục con đường học vấn ở Đại Học Luật (Hà Nội) và dạy kèm ở các tư gia. Có lần được triệu về làm Hiệu trưởng Trung Học Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hải Dương. Sau đó thầy dạy ở Thanh Miệng và năm 1948 vì nhu cầu công vụ chuyển sang làm thẩm phán tại Hải Dương cho đến năm 1950. Khi Pháp tấn công vào miền này thầy ra Hà Nội dạy ở trường Nguyễn Trãi cho đến năm 1954 khi thầy di cư vào Nam dạy ở Chu Văn An đến năm 1956. Sau xin đổi về trường Trần Hưng Đạo, Đà Lạt. Thầy còn phụ trách môn Việt văn ở trường Võ bị Liên quân Đà Lạt, Trung học công lập Quang Trung (nay là trường nữ trung học Bùi Thị Xuân), tư thục Vinh Hoa, Bồ Đề, Trí Đức. Năm 1959 thầy thuyên chuyển về Phước Tuy dạy ở trung học Châu Văn Tiếp, sau làm hiệu trưởng tại đó đến năm 1964 đổi về làm hiệu trưởng trường Hồ Ngọc Cẩn và tại đây thầy trải qua một thời gian phục vụ lâu dài nhất là 8 năm 2 tháng. Đến tháng 9-1972 thầy được bổ làm Đặc Khu Trưởng Đặc Khu Học Chánh Sài Gòn – Gia Định.
Lúc nào cũng mang hoài bão giáo dục cho con cái và học trò nên người hữu ích, tạo kiến thức căn bản để giữ gìn đức hạnh, hầu có thể tuỳ theo khả năng giúp nhà, giúp nước. Về tổ chức học đường bao giờ cũng theo một tinh thần trách nhiệm và ý thức kỷ luật. Sáng lập quỹ tình thương Hồ Ngọc Cẩn và đã giúp đỡ được nhiều học sinh nghèo có phương tiện học hành.
Thầy Hiệu Trưởng không quên và luôn luôn tìm cách bảo vệ học trò của mình qua một câu chuyện kể của thầy:
Nên nhớ rằng từ năm 1970 trở đi trường TH HNC có lớp học buổi tối (bán công) từ 6 giờ tới 10 giờ. Có cả nam sinh và nữ sinh. Do đó cũng nên nhắc tới các nữ sinh của TH HNC, nếu chúng ta quên thì họ sẽ buồn đấy. Nói về mấy cô nữ sinh có chuyện kể lại: Vào một buổi tối, mấy tên du đãng vào trường HNC quấy rối và chọc ghẹo nữ sinh. Tôi được anh em báo cho biết và tôi tới để yêu cầu (thật ra là đuổi) chúng ra xa khỏi trường. Chúng ra ngoài và thách tôi ra “chơi nhau”. Tôi ra. Hai tên xông tới tấn công. Tôi đập cho chạy hết. Tôi tưởng rơi mất kính nhờ chú Sáu soi đèn kiếm dùm. Không có kính, chỉ bắt được 4 trăm đồng do hai tên du đãng đánh rơi trong khi tỉ thí với tôi. Tôi cho báo tin đó, cam đoan không trình báo gì cả để cho chúng tới nhận. Chúng không tới. Tôi bảo đem chia cho con các tùy phái, lao công ở trong trường.
Khi thầy Hiệu Trưởng về trường Hồ Ngọc Cẩn thì song song với việc học tập, thầy đã đẩy mạnh các hoạt động thể thao và xã hội, tạo một sinh khí sôi động hẳn lên so với giai đoạn trước, thầy đã đặt vị trí người học sinh hòa hợp với trường sống chung quanh.
Chắc có nhiều cựu học sinh học trường Hồ Ngọc Cẩn vào những năm 1969-1970 còn nhớ, trong sân trường, sau phần cổng vào, có đoạn hành lang mà phía trên là lớp học ở tầng một, nhà trường có trưng hiệu đoàn của trường là hình con đại bàng. Hiệu đoàn này được vẽ lại trong trang chính của trạm http://www.hongoccan.com. Ở hai bên hiệu đoàn thầy Hiệu Trưởng cho treo hai bài thơ viết bằng phấn trên bảng màu xanh lá cây đậm, bên phải là bài thơ “IF” bằng tiếng Anh của đại văn hào Rudyard Kipling (1865-1936), bên trái là bản dịch qua tiếng Việt của Cụ Lãng Nhân Phùng Tất Ðắc. Hôm nay chúng ta cùng đọc lại cho nhau nghe bản dịch của bài thơ mà thầy vẫn còn cất giữ đến giờ phút này.
Ví
Ví con đã trăm lần thủ thắng
Một keo thua, tay trắng về không
Mà lòng lại biết nhủ lòng
Cơ đồ gây lại, oán không một lời.
Ví đường tình, xa nơi rồ dại
Biết nên cương mà lại nên nhu
Chẳng ưa con cũng chẳng thù
Bền lòng tranh đấu, miễn lo việc mình.
Ví có kẻ lòng manh ở ác
Ðem lời con xuyên tạc ra ngoài
Xá chi những miệng dông dài
Riêng con, con vẫn một lời thủy chung.
Ví hòa mình mà không bè đảng
Ðứng làm dân, khuyên gián quyền môn
Anh em bốn biển cho tròn
Tình riêng chẳng để thiệt hơn một người.
Ví lại biết xét coi, học hỏi
Giọng hoài nghi, phá hoại đừng nghe
Ước mơ mà chẳng sa mê
Nghĩ cho nên việc, chớ hề viễn vông.
Ví lấy oai mà không nỡ dữ
Biết gan liền, biết lựa tới lui
Biết ngay thảo với mọi người
Mà không lên mặt dạy đời, ta đây.
Ví con biết vinh thôi lại nhục
Cũng chẳng qua là cuộc hí trường
Biết đem can đảm làm gương
Giữ lòng bình thản, xốn xang mặc người.
Ví theo được như lời ta nhắn,
Thì đế vương, hiền thánh khôn tầy
Vinh quang, hạnh phúc trong tay
Lại hơn được cả điều này, con ơi:
Là: con biết đạo làm người.
Thầy rất thích bài thơ này vì theo thầy đó là phương châm cho cuộc sống, là hoài bão mà thầy Hiệu Trưởng muốn gởi gấm vào lớp trẻ tuổi vừa lớn, làm hành trang để dấn thân vào đời, theo đó mà sống cho “ra con người” như lời thầy nói.
Đó là ao ước mà thầy Hiệu Trưởng chờ đợi ở các học trò của mình trong suốt quá trình hoạt động của thầy. Thế còn ao ước của riêng thầy trong lúc này ra sao? Chúng ta hãy nghe thầy tự trào và kể về những niềm vui của thầy:
86 cái xuân thu rồi, răng đi hết, tóc với râu trắng hết, lại thêm những tật bệnh của tuổi già: tai điếc, mắt mờ, tay run, lưng dưới đau, khó thở, nhức xương gân, chuột rút, tứ tung ngũ hoành, tiểu đường… không biết còn ngồi dai được bao lâu nữa!
Trong nhà có con rể và cháu ngoại là y khoa bác sĩ cùng với nhiều y khoa bác sĩ cựu học sinh nữa mà “chứng nào vẫn tật nấy”.
Tuy vậy mà tôi vẫn hoan nghênh tuổi già, không chán, không ngán tuổi già. Tự thấy như cái khinh khí cầu, cần vất bỏ dần dần những túi cát, cần tháo bỏ dần dần những dây neo thì rồi mới tung bay lên cao được. Bởi vậy từ mấy chục năm trước, từ khi bắt đầu thấy cuộc sống đã làm cho thấm mệt với 4 lần chạy loạn, 4 lần làm lại cuộc đời, cho nên phải tìm hướng đi cho tâm linh, ước mong rằng sau khi thân xác này vào lò thì tâm linh này được về nơi thanh tịnh, bình an, không phải lang thang trong cõi luân hồi nữa, mà lại còn được chăm lo, cứu độ cho chúng sinh thoát khỏi vô minh phiền não, nghiệp chướng đau thương.
Hồi ở Pháp (năm 1979) tôi được chính quyền Pháp cho ở ngay trong thư viện của thành phố Massy. Tôi đọc sách của A. Malraux thấy có câu “Le 21 è siecle sera spirituel ou ne sera pas” (Thế kỷ thứ 21 sẽ là thế kỷ tâm linh hay sẽ không có thế kỷ thứ 21).
Hiện nay tôi đang để hết tâm trí vào vấn đề tâm linh. 86 cái xuân móm rồi! Cũng đã là muộn. Nhưng muộn còn hơn không.
Mong sao các anh chị em cựu học sinh HNC tuổi đã trên dưới 60, nên để ý tới vấn đề tâm linh sớm hơn tôi. Ước mong sẽ có dịp gặp nhau để cùng bàn về vấn đề đó.
Mong thế đấy. Còn được hay không là một chuyện khác!
Hiện nay cái thú của thầy là đọc những thư từ, ngắm những hình ảnh mới của học trò, hoặc chụp riêng, hoặc cùng chụp với gia đình thì càng tốt, để thầy lưu trữ trong kho tàng vô giá của thầy. Đó là kho tàng tình nghĩa, trong lúc tuổi già thường được xem lại thư và hình của những “Tình xưa nghĩa cũ” cho lòng già thêm hơi ấm nhiều hơn”, ở tuổi này thầy chỉ mong có thế mà thôi. Đó là hạnh phúc của một nhà giáo về phần cuối cuộc đời.
“Bao ân tình thuở trước chẳng hề quên,
Khiến người đọc bên đèn sa nước mắt.”
Và thầy đã dặn dò học trò cũ:
Nhưng ngày nay ở nước ngoài, nơi nào có cựu học sinh Trung Học Hồ Ngọc Cẩn thì trường Hồ Ngọc Cẩn được làm cho sống lại và được sợi dây tinh thần tương thân, tương ái, kết nghĩa, kết tình vững chắc. Ðó là điều chúng ta đã được thấy và mong sẽ giữ được như nguyện mãi mãi.
Hôm nay chúng con được dịp quây quần bên thầy Hiệu Trưởng để thay mặt tất cả những thế hệ học sinh mà thầy đã hướng dẫn, gởi đến thầy những lời tri ân tự hình thành trong tâm khảm của chúng con từ khi chúng con dấn thân vào đời. Thầy không những dạy bảo chúng con khi còn ở tuổi thành niên mà thầy còn là ngọn đuốc dẫn đường cho chúng con mãi đến bây giờ. Ngoài 8 người con ruột thịt đang phụng dưỡng thầy cô hiện nay, thầy cô còn có hàng hàng lớp lớp những người con khác ở khắp mọi nơi, vẫn nhớ và nghĩ đến thầy cô với lời cầu chúc thọ chân tình nhất đến thầy cô, hình ảnh thầy cô như bóng mát của tàn cây đại cổ thụ, trải rộng ra để che chở và làm chỗ dựa tinh thần của chúng con mãi mãi.
Xin cảm ơn thầy và cô.
NVD
Học Trò Hồ Ngọc Cẩn Gia Định
Cụ Nguyễn Đức Hiếu và tâm tình của một nhà giáo
LTS. Một môn sinh HNC với sự hợp tác hỗ trợ của Viện Bảo Tàng Thuyền Nhân và Việt Nam Cộng Hòa đã thành lập đĩa DVD kể lại một câu truyện về thầy Nguyễn Đức Hiếu. Đĩa DVD đã được chiếu trong buổi tiệc chúc thọ 90 của thầy. Ban tổ chức buổi tiệc đã có nhã ý cho phép chúng tôi trích lại câu truyện. Mời quý vị đọc tiếp…
Viện Bảo tàng Thuyền nhân và Việt Nam Cộng Hòa xin được giới thiệu cùng quý vị câu truyện về một nhà giáo và mối tình thầy trò trong nền văn hóa tôn sư, trọng đạo của người Việt. Thật khó cho những trẻ em người Mỹ gốc Việt sau này hiểu được tình thầy trò đó, nếu không có được những câu truyện cụ thể như truyện của cụ Nguyễn Đức Hiếu, một nhà giáo mẫu mực, biểu tượng cho hàng ngàn câu truyện chung về các nhà giáo Việt Nam.
Sinh năm 1917 tại Hải Dương, miền Bắc Việt Nam, cụ Nguyễn Đức Hiếu đã có mộng thành luật sư và đã đi dạy tư từ năm 17 tuổi. Mộng luật sư không thành vì lập gia đình sớm quá như phong tục, tập quán thời ấy. Cụ đã làm thầy giáo từ trước năm 1954, đã từng dạy ở các trường Nguyễn Du, Nguyễn Trãi ở ngoài Bắc. Năm 1954, cụ đã cùng hàng triệu đồng bào miền Bắc phải di cư vào miền Nam để có cuộc sống tự do. Cụ tiếp tục đi dạy học và dạy ở các trường như Chu Văn An, Trần Hưng Đạo, Châu Văn Tiếp, Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt, Thánh Mẫu và Hồ Ngọc Cẩn. Đến tháng Tư, 1975, một lần nữa, vật đổi, sao dời, cụ và gia đình bị kẹt lại. Riêng cụ phải tập trung cải tạo, suýt chết trong tù vì mắc bệnh kiết lỵ. Đến tháng Bảy 1979 thì cụ dứt khoát rời Việt Nam bằng đường biển. Chiếc tàu vượt biên nhỏ bé bị hải tặc tấn công, cướp bóc. Riêng cụ, bọn hải tặc dã man đã nhổ hết mọi răng cửa bọc vàng của cụ. Chiếc tàu bị trôi dạt bảy ngày trước khi được một tàu buôn Pháp cứu vớt.
Năm nay đã bước vào tuổi 90, tuy thế, cụ Nguyễn Đức Hiếu trông vẫn khỏe mạnh, và đặc biệt, trí óc rất minh mẫn. Năm nay, năm 2007, học trò của cụ ở khắp nơi và từ các trường xưa sẽ gửi đến cụ những cánh thiệp chúc mừng sinh nhật 90. Hơn thế nữa, học trò của cụ còn tổ chức một buổi họp mặt để nói về cụ, để tò lòng ngưỡng mộ, và cũng để chứng tỏ tấm lòng yêu mến dành cho cụ.
Tại sao trong số cả trăm ngôi trường, cả ngàn thầy giáo, cụ Nguyễn Đức Hiếu lại nổi bật lên như thế? Có mấy học trò không quý mến, kính trọng thầy cô giáo cũ của mình? Nhưng có mấy thầy cô giáo được học trò nhắc nhiều như nhắc về thầy Nguyễn Đức Hiếu. Lẽ dĩ nhiên là có rất nhiều lý do, và đó là nguyên nhân Viện Bảo tàng Thuyền nhân và VNCH đã chọn câu truyện của cụ làm câu truyện tiêu biểu cho những thế hệ mai sau.
Thầy Hiếu dữ lắm! Học trò thường kể như vậy. Hồi còn làm Hiệu trưởng Trung học Hồ Ngọc Cẩn, thầy hay đi tuần tra các lớp học, tay cầm roi to, mặt nghiêm nghị răn đe những học sinh ngỗ nghịch. Thỉnh thoảng, thầy Hiếu đánh phạt học trò, roi quất vào mông. Đánh từ tầng thứ ba mà tầng dưới cùng còn nghe thấy chan chát. Học trò nghe mà rợn người. Đánh xong, thầy còn cho một bài công dân giáo dục, trò chỉ dạ và cúi đầu mà nghe, không dám hó hé. Nhưng có những chuyện khác cũng thường xảy ra. Có những học trò nghèo quá tìm gặp thầy than thở. Khuôn mặt nghiêm nghị biến mất. Thầy Hiếu chỉ còn có sự ân cần và ôn tồn hỏi han. Thầy hiền từ như một nhà sư. Có khi thầy cùng rơi nước mắt với học trò. Có khi thầy mang trò về nhà cho bữa cơm ăn, cho món quà nhỏ, cho những lời khuyên nhủ, khuyến khích. Thầy trò trở thành cha con, thương nhau hết mực. Thầy kể lại:
Mình thương yêu học trò. Khi mà bắt buộc phải đánh, thì đánh với cái tình cảm là cha dạy con. Đôi khi học trò kể những nỗi khổ riêng của mình, mà cả hai thầy trò cùng khóc.
Sau 1975, thầy vào tù cải tạo gặp lại trò trong tù. Thay cho cung cách đấu tố, thầy Hiếu và người học trò bạn tù lại đùm bọc lấy nhau hơn bao giờ hết. Thầy lâm bệnh nặng gần chết, trò nâng giấc cho thầy, chia sẻ miếng nước, miếng ăn hiếm hoi để thầy còn sức vượt qua cơn bệnh hiểm nghèo. Thầy tâm sự:
Đi học tập thì Thuyết đối với tôi, có khi liều cả cái mạng của mình, như đêm bò sang cái chỗ này, mà không e sợ cảnh sát. Hái được ít rau muống đem về luộc lên để cho thầy ăn. Còn đem cả nước rau muống cho thầy uống. Tôi chưa bao giờ được ăn rau muống ngon như thế.
Không phải thầy giáo nào cũng được diễm phúc trải qua những kinh nghiệm sống thực như thế để biết được tình thầy trò đằm thắm như thế nào. Đó chính là cơ duyên của thượng đế ban cho và thầy Nguyễn Đức Hiếu đã không bỏ lỡ cơ hội thực hiện sứ mạng truyền đạt những câu chuyện làm rung cảm lòng người như vậy. Bất cứ lúc nào được nói, thầy Nguyễn Đức Hiếu luôn luôn dành những lời của mình để ca tụng tình thầy trò trong con người Việt Nam. Thầy tiếp:
Không có gì thú vị bằng học trò của mình đạt được những kết quả về phương diện tinh thần cũng như về phương diện hiểu biết. Cái đó là niềm vinh dự của chúng tôi. Vì thế cho nên có lẽ bây giờ được thọ tới ngoài 90 tuổi. Đó là điều chúng tôi được hưởng, cũng là do phúc của các môn sinh của tôi đã đem đến cho chúng tôi.
Cụ Nguyễn Đức Hiếu không phải là một thánh nhân. Cụ là một người rất bình thường như mọi người. Cụ cũng không có một cuộc đời trên nhung lụa. Nhưng thực sự cụ là một nhà giáo mẫu mực. Đó là điều ai cũng công nhận. Cụ có đến 29 năm dạy học ở Việt Nam, dạy hàng ngàn học trò qua 17 trường trung học, từ Bắc chí Nam. Cụ từng đứng lớp dạy học trực tiếp, từng làm Hiệu trưởng, từng làm Giám Đốc khu Học chánh Saigon-Gia Định, trông coi biết bao nhiêu trường. Không ai thấy cụ cao ngạo bao giờ. Ai cũng biết chắc chắn cụ rất nghiêm nghị. Chẳng thế, lúc mới ngoài 50 tuổi mà đã thường được gọi là cụ. Và cụ cũng biết vai trò mô phạm của mình nên đã để bộ râu trắng từ thuở ấy. Trông rất là một cụ ông lão trượng. Lúc nào cụ cũng muốn làm gương cho học trò. Vì thế, lúc nào cụ cũng học. Đến năm 65 tuổi, cụ vẫn xách cặp đến trường, học xong bằng Thạc sĩ tại Đại học Tiểu bang Sacramento để có phương tiện đi dạy học tiếp. Cụ còn muốn làm gương cho học trò về mối tình trong đời cụ. Khi đã lập gia đình, dù cũng có những lúc không êm ấm, cụ vẫn một lòng chung thuỷ. Thầy thố lộ với cô:
Cái hồi mà bà về làm bạn đường với tôi, bạn đường và bạn đời, lúc bấy giờ có lẽ là tôi không khó tính như bây giờ. Nhưng bây giờ với cái tuổi già, mới thấy rằng cái cuộc đời của mình thỉnh thoảng cũng có những cái tai nạn không thể tránh được. Cái đời của chúng mình cùng sống với nhau đã gặp biết bao nhiêu là những sự khó khăn, biết bao nhiêu là những điều mà mình không có mong ước mà nó lại cứ đến. Cái nỗi khổ mà bà phải chịu chung với tôi, làm gì mà tôi không biết được. Thế nhưng mà đã cùng với nhau thì gặp được cái may. Thí dụ như tôi là thầy thì bà là cô. Tôi là một người cha tinh thần thì bà cũng là người mẹ tinh thần. Tôi cảm ơn bà là về những cái điều là bà đã tiếp đãi học trò của tôi, với cái tinh thần của một cô giáo hay một bà mẹ. Cái đó, tôi không bao giờ quên. Bà nên nhớ như thế. Có lẽ sau này, cái điều tôi ước mong là tôi với bà cùng đi một lúc, để khỏi hoặc bà nhớ tôi hoặc tôi nhớ bà.
Và thầy nói đến niềm hạnh phúc của thầy:
Từ xưa tới nay, thầy vẫn thường nghĩ rằng cái hạnh phúc của thầy, một phần lớn là do các anh em đã đem cho thầy. Và chính thầy cũng biết rằng trong khi thầy dạy học, thầy có những khi cần phải nghiêm khắc, thế nhưng mà trong lúc nghiêm khắc, lòng thầy bao giờ cũng thương mến các học trò của thầy. Có khi thương mến hơn là các con của thầy nữa. Vì thế cho nên, thầy lấy làm hãnh diện về các học trò của thầy đã chịu khó học, không bao giờ để cho thầy buồn phiền hay là đối với thầy thiếu cái niềm lễ độ của một người học trò đối với thầy. Nhiều khi thầy thấy rằng có thể thầy không trọn vẹn được cái sứ mạng giáo dục của thầy, nhưng mà nhờ được cái các anh em thương thầy, có lẽ cũng đã bỏ qua cho thầy. Cái điều đó, thầy cũng cần phải cảm ơn. Vì thế cho nên, các anh, các chị, bởi vì thầy cũng có các nữ sinh, đã cho thầy cái tuổi thọ này. Các anh, các chị đã thương mến thầy, đã không quên thầy, đã hỏi thăm thầy, đã nhớ tới thầy, cái tuổi thọ của thầy là ở chỗ đó. Vậy thì bây giờ thầy xin cảm ơn tất cả các môn sinh của thầy, đã nghĩ tới thầy, làm cho thầy lúc nào nghĩ đến các anh, các em, cũng là những lúc mà có thêm sự sống. Vì thế thầy xin cảm ơn tất cả các anh em đã là học trò cũ của thầy.
Đó là những nét chính về cụ Nguyễn Đức Hiếu, một nhà giáo tiêu biểu về sự mẫu mực, về sự nghiêm khắc khi dạy dỗ học trò, về sự khoan dung, thương mến học trò như con mình, về sự kính trọng đồng nghiệp, về tính nhân bản trong con người, trong nền văn hóa tôn sư, trọng đạo của dân Việt.
Một vị thầy
Thân mến các thầy cô, các quí vị đã làm việc ở trường Hồ Ngọc Cẩn, Gia Định và các anh em học sinh cũ của trường,
Tôi không có năng khiếu làm thơ, nhưng tôi muốn kể lại một kỷ niệm đáng nhớ nhất của tôi với thầy Hiệu Trưởng Nguyễn Đức Hiếu, nhân Lễ Mừng Thường Thượng Thọ Chín Mươi của thầy:
Tôi nhớ nhất khi đi dạy học môn Sử Địa ở trường HNC, thì cũng là lúc tôi đang làm luận án cao học sử học về “Phương Pháp Truyền Giáo Của Đạo Tin Lành ở Việt Nam” ở trường Đại Học Văn Khoa Sàigòn. Mỗi lần đến trường HNC, tôi đều tranh thủ thời gian gặp thầy Hiệu Trưởng Nguyễn Đức Hiếu, lợi dụng khả năng đọc hiểu chữ Hán của thầy để dịch giúp tôi một tài liệu tôi xin được ở trong Hội Thánh Tin Lành ở Chợ Lớn, do cụ Mục Sư Vĩ Úc Lương, người Trung Hoa trao tặng.
Dù rất bận rộn công việc điều hành nhà trường và tiếp xúc với các thầy cô trong trường và những vị có công việc liên hệ đến nhà trường, thầy Nguyễn Đức Hiếu đã hết sức giúp mà không nề hà vất vả. Tôi đã có những buổi hẹn ngoài giờ tôi dạy để làm việc riêng với thầy Hiếu, nhưng lúc nào thầy cũng sẵn sàng.
Tài liệu tôi nhờ giúp là cuốn kỷ yếu Tin Lành “Chúa Nhật Châu Khang”, nói về lịch sử cuộc truyền bá Đạo Cơ Đốc của các nhà truyền giáo Hội Phước Âm Liên Hiệp tại Việt Nam cho người Trung Hoa ở Việt Nam.
Tài liệu này rất quí gồm có nhiều bài của các mục sư đã đến Việt Nam truyền bá Tin Lành cho người Trung Hoa ở Chợ Lớn từ năm 1922 trở về sau.
Điều đáng quí gây ấn tượng nhiều nhất cho tôi là thầy Nguyễn Đức Hiếu rất sẵn sàng với hết mọi người và khi đã giúp ai thì giúp một cách tận tình, đến nơi đến chốn.
Ngài đã góp phần đào tạo nên nhân cách và học vấn của tôi, ngay lúc tôi dậy học ở trường HNC. Tôi không bao giờ quên ơn thầy, không phải với tính cách một đồng nghiệp mà như một học trò được thụ huấn với Ngài. Tuổi Trường Thọ của Ngài là thời gian tích lũy những đức tính cao cả nhân nghĩa của thầy, là những năm tháng đầy ơn Trời của thầy. Lễ Thượng Thọ mừng thầy cũng là ngày các học trò đều nhớ: “Không thầy đố mày làm nên” và “Nhất Tự Vi Sư, Bán Tự Vi Sư” và “Tam nhân đồng hành tất hữu ngã sư yên”. Chúng ta là người đi học tất cả ai cũng có một thời gian làm học trò của những thầy dạy ta. Hơn nhau ở chỗ biết ơn những ai đã làm ơn cho mình bằng nhiều hình thức mà mình có thể làm.
Thân ái chia sẻ với tất cả anh em thân hữu,
Ad Multos Annos, thầy Nguyễn Đức Hiếu!
Đỗ Hữu Nghiêm
Chúc thọ thầy
Kính thưa thầy Nguyễn Đức Hiếu,
Kính thưa các quí vị,
Thưa các bạn học năm xưa,
Rất tiếc con không có cơ hội được đến cùng với các quí vị để kính chúc mừng tuổi thọ 90 của thầy, và xin thầy hiểu cho lòng con. Tuy ở rất xa thầy nhưng vẫn luôn nghĩ đến thầy và các thầy, các cô đã dạy dỗ con năm xưa. Và con xin kính tặng thầy 4 câu thơ nhân dịp ngày vui mừng thượng thọ 90 của thầy:
Thầy tôi chín chục tuổi rồi,
Dung nhan xem thật tuyệt vời hôm nay.
Lạy trời ban phước cho thầy,
Sống vui hạnh phúc với trò năm xưa.
Kính thư,
Hoc trò Nguyễn Văn Thạch, 1958-1965
Lá thư từ một trò xưa
Canada, ngày 14 tháng 6 năm 2006
Kính thưa thầy,
Con tên là Trần Thanh-Tịnh, học sinh Hồ Ngọc Cẩn 1961-1968, hiện sinh sống tại Canada. Được biết các bạn cựu học sinh Hồ Ngọc Cẩn tổ chức mừng thượng thọ thầy. Vì đường xá xa xôi không về được, con xin viết đôi dòng kính mừng thầy được đầy đủ sức khỏe. Cầu mong thầy tiếp tục được đầy đủ sức khỏe rất nhiều năm nửa.
Con nhớ những năm sau cách mạng 1963, trường ta rất bất ổn. Khi thầy về làm hiệu trưởng, trường trở nên ổn định. Nếu trường tiếp tục bất ổn thì các con cũng khó học hành và tương lai sẽ vô cùng đen tối, nhất là các con lớn lên trong thời gian chiến tranh.
Trong những năm đó, thầy đã hòa đồng với các con về thể thao, văn nghệ, công tác xã hội hay các lãnh vực khác. Có vài lần thầy theo các con ra sân vận động Hoa Lư, thầy ngồi dựa gốc cây để ủng hộ các con đá banh. Rất bình dị. Khi các con dự sinh hoạt thể thao ở sân vận động Cộng Hòa ra về thì không có xe chở về, vì quá giờ làm việc của tài xế chở học sinh. Tuy thầy có xe riêng của chính phủ, thầy đã không dùng. Thầy đi bộ với các con từ sân vận động Cộng Hòa về đến trường nhà. Đường xa vời vợi.
Thầy đã vận động tòa tỉnh mua cho các con các nhạc cụ. Các cây đũa đánh trống thường bị gẫy vì các học sinh đánh nhiều quá. Thầy vẫn kiên nhẫn đi xin tài chánh để mua. Sinh hoạt báo chí cũng rất sôi nổi.
Từ một trường “khó dạy” sau cách mạng, học sinh trường Hồ Ngọc Cẩn dần dần trở nên gương mẫu về hòa nhã cũng như hữu ích xã hội. Trường Hồ Ngọc Cẩn làm rất nhiều công tác xã hội. Mỗi lần làm công tác xã hội, thầy thường đi ủng hộ. Trường Lê Văn Duyệt chung quanh là sình lầy. Các con e ngại lội xuống. Thầy hăng hái ra tay làm gương cho các con. Cũng cùng thế ấy, khi cần dọn dẹp sạch sẽ cầu tiêu của trường.
Thầy thường dạy các con về đạo đức đối với người thân cũng như đối với các thầy cô. Trong một buổi họp với học sinh, có một anh nói rằng thầy dạy khi thầy cô bịnh, các con nên thăm hỏi. Nhưng khi hỏi các thầy địa chỉ của các thầy cô, đôi khi các thầy cô không cho thì làm sao đi thăm hỏi. Lúc đó thầy nói, nếu xin địa chỉ với lý do chính đáng thì đến gặp thầy.
Sau khi rời trường con đi du học ở Âu Châu. Mấy năm sống một mình xứ người, đối diện với thực tế, con nhớ những lời của cô Nguyễn Lệ Dung dạy trong môn Công Dân Giáo Dục và Triết Học. Năm 1974, con về thăm gia đình. Nhớ ơn cô, con muốn đi thăm, nhưng biết tìm cô ở đâu. Con lên gặp thầy, và thầy làm đúng điều thầy đã nói tám chín năm trước đó. Thầy cho con địa chỉ của cô Dung. Con nhớ ơn thầy.
Con luôn ghi nhớ những việc làm của thầy đã giúp con nên người. Con có một cuộc sống ổn định khi trưởng thành cũng là do công của thầy và các thầy cô khác đã dạy con.
Con thành tâm cầu mong sức khỏe của thầy lúc nào cũng dồi dào.
Kính thư,
Trần Thanh-Tịnh

