BND007- Người Việt thông minh đến đâu ?
Chú thích: Bài viết dưới đây được phổ biến ngày 20/10/2010 trong trang nhà
http://www.mathvn.com/2010/10/nguoi-viet-thong-minh-en-au.html
Bài gồm 2 phần:
Thuận Hoà xin phép được đăng lại ở đây để giúp cho độc giả hiểu biết thêm về trí thông minh của người Việt Nam và có được thái độ đúng đắn hơn “Nếu thấy mình yếu kém, thì cố gắng học hỏi, luyện tập thêm nữa sao cho bằng người”.
- Người Việt thông minh đến đâu?
- Trí thông minh của người Việt so với thế giới
Người Việt thông minh đến đâu?
Thật khó phán xét trí thông minh của một người, chưa muốn suy rộng ra sự thông minh của cả một cộng đồng, một chủng tộc, một dân tộc. Bởi thông minh có thể có rất nhiều loại.
Thông minh và những khái niệm khác biệt
Xưa kia, trong những câu chuyện kể, các thần đồng ở nước ta được coi là thông minh xuất chúng qua những câu ứng đối, “xuất khẩu thành thi” và nhất là đối ngay được một vế đối đặt ra (“xuất đối dị, đối đối nam” mà!), kể cả những câu đối bằng chữ Hán phức tạp bao gồm cả chiết tự, điển tích…
Cách kiểm tra ấy tuy không tính thành điểm cụ thể nhưng có thể coi là kiểu xác định IQ của ta. Nhiều sự nghiệp của một danh nhân chúng ta chẳng biết được gì hơn, ngoài khoảng một chục đôi câu đối “để đời”. Điều này cũng tương tự với việc đo chỉ số IQ ở chỗ là so sánh sự phát triển trí tuệ vượt trội của những người cùng lứa tuổi (IQ vốn là thương số thông minh, xác định tỷ số giữa tuổi trí tuệ và tuổi sinh học).
Cũng theo truyền thuyết này, nhiều “thần đồng” giỏi ứng đối ấy thường là những vị đỗ đầu (tức Trạng nguyên) trong cuộc thi tuyển của Triều đình, thậm chí ngay khi còn ở lứa tuổi thiếu niên, mới 13, 14 tuổi đã “cưỡi cổ” thiên hạ.
Thông minh đôi khi có thể đánh giá qua sự nhanh trí giải quyết một vần đề cụ thể. Có thể lấy Trạng Lường Lương Thế Vinh (1441-1495) làm ví dụ. Từ hồi nhỏ, ông đã tìm được cách đổ nước để lấy quả bưởi trong hố lên, sau này khi đã là Trạng, nổi tiếng cả ở Trung Quốc, đã giải những bài toán kiểu “cân voi”, “xác định chiều dày một tờ giấy” theo thách đố của sứ Tàu (mà những bài toán kiểu này chắc các em lớp 3, lớp 4 ngày nay cũng nghĩ ra ngay)…
Theo sử liệu, ông là tác giả của tác phẩm là “Đại thành toán pháp”, được nói đến như sách giáo khoa cho các sĩ tử suốt mấy trăm năm (?). Nhưng bản thảo đã thất truyền khiến ta không thể bíết đó có phải những phát minh về Toán học (hoặc chỉ là những tổng kết) và ở mức độ nào trong lịch sử Toán học thế giới.
Cùng năm sinh với Lương Thế Vinh, còn có Vũ Hữu, được vua Lê Thánh Tông khen là “Thần toán”, viết cuốn “Lập thành toán pháp” cũng thất truyền, nói về cách đo tính ruộng đất rất phổ biến trong toàn quốc.
Hiểu “thế nào là thông minh” khác nhau khá nhiều từ Đông sang Tây. Khoa học hiện đại dù bộ môn Thần kinh học rất phát triển: Đo điện não đồ, quét não, chụp não, xác định tốc độ truyền dẫn thần kinh, rồi khám phá bản đồ gen để biết tập hợp những nhóm ADN nào liên quan đến khả năng gì… vẫn chẳng thể cho ta một câu trả lời rõ ràng, thuyết phục.
Những tranh luận xung quanh trí thông minh đã, đang và sẽ tốn không biết bao nhiêu thời gian và giấy mực nữa, song dù chưa có những nhất trí, người ta vẫn tuyển chọn, bồi dưỡng và thu hút được nhân tài với những thành công đáng kể và thu được những hiệu quả xã hội lớn.
9 kiểu thông minh và “những nhà bác học ngốc nghếch”
Theo phân loại của Giáo sư Tâm lý học Howard Gardner (Hoa Kỳ) được nhiều người thừa nhận (và thường gọi là thuyết đa thông minh – theory of multiple intelligences), có ít nhất 7 kiểu thông minh (thông minh về lời nói, ngôn ngữ; thông minh về logic, toán học; thông minh về thị giác, không gian; thông minh về âm nhạc; thông minh về cơ thể, cử chỉ; thông minh về xã hội, giao tiếp; thông minh về nội tâm). Sau này, người ta còn bổ sung thêm hai kiểu thông minh nữa là trí thông minh thiên nhiên và trí thông minh sinh tồn.
Cách phân chia như vậy dường như không có sự phân biệt giữa 2 khái niệm “thông minh” và “năng khiếu”. Mà theo cách hiểu thông thường một số dạng thông minh mà Gardner nói đến chỉ là năng khiếu mà thôi.
Vả chăng, trong ngôn ngữ học, đôi khi không có những từ ngữ đối chiếu hoàn toàn tương đương nên nếu đi sâu hơn nữa sẽ không tránh khỏi những tranh luận kéo dài.

Lại còn những trường hợp những người bị tự kỷ (autisme) khó mà đánh giá là người thông minh mà ngược lại (theo cách nghĩ thông thường) nhưng lại trở thành những danh họa, những nhạc công tuyệt với, chỉ nghe một bản giao hưởng một lần là nhớ hoặc từ trên máy bay, bay ngang qua một thành phố lớn, trở về có thể vẽ lại từng vị trí, hình dáng các công trình kiến trúc hoàn toàn chính xác. Hiện tượng đó, các nhà tâm lý gọi là “hội chứng các nhà bác học ngốc nghếch”. Nhà phát minh thiên tài của nhân loại (tất nhiên, một đầu óc sáng tạo khủng khiếp) là Edison thuở nhỏ chẳng bị đuổi học vì “không có khả năng học tập” đó sao? Rồi Einstein thuở nhỏ nghe nói cũng bị tự kỷ.
Mỗi kiểu thông minh theo phân loại trên có những phẩm chất và khả năng cơ bản, có thể có hoặc không liên hệ với nhau. Mỗi kiểu có một vùng khác nhau trên não bộ phụ trách (?) và đều có thể cải tạo, phát huy.
Cách phân loại ấy có thể giải thích thoả đáng vì sao một người học hành rất dở nhưng lại thành công trong kinh doanh hoặc trên chính trường. Vì sao một thiên tài toán học đầy đủ các bằng cấp, danh hiệu, giải thưởng, song khi đặt vào vị trí lãnh đạo một viện Toán lại để cho cơ quan bí bét, rối beng.
Người ta đã từng vận dụng cách phân loại này để hướng nghiệp cho học sinh, nhằm sắp xếp “người nào việc ấy”, “dụng nhân như dụng mộc”, “hạn chế sở đoản, phát huy sở trường” làm lợi cho bản thân người lao động, tăng hiệu quả phục vụ xã hội.
Cũng như vậy, để tuyển những người hoạt động trong lĩnh vực trí tuệ như hoạt động khoa học chẳng hạn, cần lựa chọn những người nổi trội về trí thông minh logic, sáng tạo… Đó là những người có khả năng tiếp thu những kiến thức mới nhanh, nhạy cảm, chính xác và có khả năng tự tìm ra những kiến thức mới (khả năng khai phá) trong từng vấn đề cụ thể, và trí thông minh theo cách hiểu thông thường thuộc loại này.
Albert Einstein
Hiện tượng thông minh của người Do Thái
Nếu trí thông minh có tính cá nhân, thì chủng tộc, cộng đồng và cả một dân tộc có vai trò gì không? Nói cách khác, có chủng tộc nào có trí thông minh vượt trội không? Khẳng định điều này rất dễ rơi vào “thuyết ưu sinh” của chủ nghĩa quốc xã Đức.
Năm 1994, tác phẩm “Đường cong hình quả chuông” của hai tác giả Herrstein và Muray, trên cơ sở phân tích chỉ số IQ đã rút ra một loạt kết luận khi áp dụng vào xã hội, không những chỉ gây tiếng vang rộng rãi trong giới khoa học mà còn bị phản ứng gay gắt của quần chúng đối với nó. Thậm chí các tác giả còn bị lên án là “phân biệt chủng tộc” khi đề cập đến trí thông minh của các cộng đồng trong một xã hội.
Nếu quả thật trí thông minh bị tách rời khỏi chủng tộc, tại sao khi GS Ngô Bảo Châu được giải Toán học Fields tầm cỡ lớn của quốc tế, từ các lãnh đạo cao cấp đến báo chí đều nói “điều đó chứng tỏ “trí tuệ của dân tộc Việt Nam” không hề thua kém”?
Lại nữa, trong cuộc tranh luận của Quốc hội, liệu có nên đường sắt cao tốc không, một vị đại biểu nói “những nước có chỉ số IQ cao đều làm đường sắt cao tốc”. Nói như vậy có hàm ý trí thông minh có gắn với dân tộc hay không? Chắc chắn là có hàm ý ấy.
Những thống kê về tỷ lệ các giải thưởng quốc tế như giải Nobel, giải Fields… mà người “gốc Do Thái” sở hữu, những nhân vật gốc Do Thái đứng đầu các ngành văn học, nghệ thuật và cả chính trường nữa buộc ta phải suy nghĩ đến sự liên quan giữa trí thông minh và chủng tộc.
Song từ thông minh đi đến thành công thì còn phải đòi hỏi nhiều điều kiện nữa, bao gồm cái tạm gọi là “nội lực” (phẩm chất cá nhân) và “ngoại lực” (môi trường và diều kiện làm việc).
Tuy nhiên, không thể nói dân tộc nào thông minh hơn dân tộc nào vì thế giới phát triển không đồng đều vì khoảng cách giữa các nước quá chênh lệch và ngày càng chênh lệch, khiến chẳng bao giờ mọi người được bình đẳng về điều kiện sống và làm việc.
Từ thông minh đi đến thành công thì còn phải đòi hỏi nhiều điều kiện
Người Việt Nam có thông minh không ?
“Người Việt Nam rất thông minh, cần cù lao động”, “đất nước ta rừng vàng biển bạc, ruộng đất phì nhiêu, tài nguyên đa dạng và phong phú”… Đó là những điều chúng ta được dạy dỗ từ khi bắt đầu cắp sách đến trường, được nói đến trong những cuốn sách giáo khoa dùng cho học sinh và tự giới thiệu ra nước ngoài.
Tuy vậy cũng có những quyển sách viết dè dặt hơn. Chẳng hạn Việt Nam sử lược của học giả Trần Trọng Kim (viết năm 1919, cách đây gần một thế kỷ) đã nhận xét: “Về đàng trí tuệ và tính tình, thì người Việt Nam có cả tính xấu lẫn tính tốt. Đại khái thì trí tuệ minh mẫn, học chóng hiểu, khéo chân tay, nhiều người sáng dạ nhớ lâu, lại có tính hiếu học, trọng sự học thức, quí sự lễ phép, mến điều đạo đức, lấy sự nhân, lễ, nghĩa, trí tín làm 5 đạo thường cho sự ăn ở. Tuy vậy vẫn hay có tính tinh vặt, cũng có khi quỷ quyệt và hay bài bác, nhạo chế”
Nếu quả thực về đàng trí tuệ, nếu “trí tuệ minh mẫn, học chóng hiểu, …, sáng dạ, nhớ lâu, lại có tính hiếu học, trọng sự học thức”, thì đó mới chỉ là những lợi điểm có thế phát huy ở giai đoạn đầu tiên của cuộc đời. Học hành để tích luỹ kiến thức, dùng cho giai đoạn chủ yếu của cuộc đời là làm việc, gây dựng sự nghiệp, nuôi sống gia đình, đóng góp cho xã hội. Chính tại giai đoạn chủ yếu này, trí thông minh thể hiện rõ nét và phát huy.
Bằng sự trải nghiệm của một người đã làm công tác nghiên cứu khoa học ở tuổi ngoài 70 và cố gắng khách quan, không e ngại ý kiến của mình có thể đụng chạm, tôi xin đưa ra một nhận định cá nhân. Đó là:
Người Việt chỉ thông minh vừa phải mà không thuộc loại thật xuất sắc.
Trí thông minh của người Việt so với thế giới
Nếu kết hợp cả số công trình đã được đăng với số người làm công tác khoa học- công nghệ (ta đông hơn Thái 5 lần) thì “sản phẩm trí tuệ” tính theo đầu người của ta bằng 1/25 của Thái (nói nôm na, một nhà khoa học của Thái tạo ra “sản phẩm trí tuệ bằng 25 nhà khoa học Việt).
Lý thuyết giỏi nhưng làm… không giỏi
Tôi xin kể lại một câu chuyện như một kỷ niệm nhỏ của mình. Cách đây hơn 40 năm, tôi được cử đi làm thực tập sinh khoa học (sau đại học) ở Tiệp khắc. Do “ăn theo” ông thầy, tôi được “ghé tên” vào mấy bản báo cáo ở Hội nghị quốc tế chuyên ngành đôi ba lần và được đi dự cùng ông. ĐSQ biết chuyện này, và trong một Hội nghị các sinh viên tiên tiến, tôi được ông Bí thư thứ nhất (đã mất từ lâu) báo tin tôi được báo cáo điển hình tại “Hội nghị những lưu học sinh tiến tiến” tại Tiệp.
Song bản báo cáo phải viết trước để ông thông qua (hồi đó cẩn thận lắm, không được phát biểu tự do). Trong báo cáo tôi có kể lại chuyện của mình và rút kinh nghiệm, đại khái là chúng ta có thể học giỏi nhưng sau khi ra trường làm không giỏi như họ. Cùng một công việc, họ thường có suy nghĩ và cách giải quyết “sáng” hơn mình, độc đáo hơn mình. Có thể mình “bí” nhưng họ vẫn tìm được lối ra.
Lúc tôi sắp lên đường đến hội nghị (cách khoảng 500 km) thì nhận được hồi âm “Quan điểm sai, đầy tinh thần tự ti dân tộc. Cậu không phải đi họp nữa”. Tôi bị ám ảnh khá lâu vì “quan điểm sai lầm” của minh…
Sau khi hết hạn thực tập, tôi về nước (năm 1971), lúc qua Matxcơva may mắn được ở cùng phòng với nhà thơ Lưu Trọng Lư, trên chuyến tàu hoả từ Liên Xô về Việt Nam. Những ngày trên đường, 2 bác cháu nói chuyện với nhau khá nhiều. Khi tôi mang chuyện này ra hỏi, ông hoàn toàn đồng ý. Ông bảo đó cũng là điều ông rút ra từ bản thân mình và các bạn bè thời Pháp.
Chẳng có gì lạ vì cái học của mình, ngày xưa thì tầm chương trích cú, sau này thì học “gạo”, lấy chăm chỉ, cần cù làm chính nên học “giỏi” là đương nhiên. Sự học là như vậy. Khi ra làm việc, phải chủ động, sáng tạo, phải quyết đoán, cái “yếu” của mình mới thể hiện. Ý kiến đó sau này tôi cũng được giáo sư Nguyễn Thạc Cát (đã mất năm 2002) chia sẻ.
Giỏi lý thuyết nhưng không giỏi thực hành
Tôi có thể nêu một thí dụ nữa. Anh N.M.N bạn tôi làm ở ngành Địa chất. Một buổi ngồi chuyện trò với nhau, anh tâm sự: Hồi học ở Liên Xô những năm 60, mình học cùng nhóm với thằng S.V – người Nga – và thường xuyên phải giúp nó học và làm bài tập. Tốt nghiệp mình bằng đỏ, nó bằng thường. Hơn 10 năm sau, nó sang Việt Nam làm chuyên gia, mình được phân công làm việc cùng với nó. Lúc đầu, cũng bực: “Chuyên gia gì mày. Mày còn nhớ những lúc tao làm bài hộ mày chứ !”. Nhưng dần dần, mình ngày càng “sợ” nó. Nó nhận định và giải quyết những chuyện chuyên môn ở mức mình không phải người tranh cãi với nó nữa mà chỉ đóng vai trò… phiên dịch cho nó mà thôi. Chuyện! Nó ra công tác với đầy đủ điều kiện làm việc, lại bám được một “sư phụ” cực giỏi, kinh nghiệm đầy mình để học hỏi, trong khi ở cái đội thăm dò của mình, mình là… trùm.
Biết bao nhiêu lý do để có hiện tượng “học giỏi nhưng làm không giỏi của “ta” và “tây”. Từ cách dạy, cách học ở trường phổ thông, không gợi mở, không khuyến khích sáng tạo đến thiếu điều kiện làm việc khi ra trường để phát triển… Việc học giỏi nhưng làm không giỏi lắm khiến người Việt mình dường như đến một lúc nào đó không “bật” được nữa, có muôn ngàn lý do…
“Cúi trông thẹn đất, ngửa trông thẹn trời”
Một dân tộc không thông minh không thể tồn tại và phát triển trải qua 4000 năm với biết bao nhiêu sức ép mãnh liệt từ bên ngoài. Một dân tộc đã thắng được ba cường quốc mạnh hơn mình và trình độ phát triển cao hơn mình là một sự thông minh tuyệt vời. Song nội dung của bài này chỉ giới hạn sự thông minh trong những sáng tạo khoa học công nghệ như chúng ta thường quan niệm.
Nói thông minh nhiều hay ít cứ phải có dẫn chứng cụ thể. “Sản phẩm của sự thông minh” đối với những người lao động trí óc là những công trình nghiên cứu và hiệu quả của chúng mang lại. Điều quan trọng nữa là cần có sự so sánh để hiểu chúng ta có bao nhiêu “sản phẩm” loại này và những nước xung quanh có bao nhiêu. Sản phẩm đầu tiên là số công trình nghiên cứu và triển khai – nói lên bức tranh về sự thông minh của nhân loại – lên tới hàng triệu bài báo mỗi năm, được công bố trên khoảng 9.000 tạp chí chuyên môn có uy tín quốc tế. Tôi xin nhắc lại các số liệu mà tôi ghi lại cách đây nhiều năm (Trần Minh Tiến, trên tờ Tia Sáng 2-2004).
Không dám dẫn ra bất cứ một nước trung bình nào, tác giả chỉ so sánh 3 nước vào thời điểm năm 1973 có điểm xuất phát gần như nhau là Thái Lan, Singapore và Việt Nam, thì đến năm 2000, số công trình được đăng trên các tạp chí khoa học của ta chỉ bằng của Thái Lan và Singapore năm 1980. Còn hiện nay, Thái nhiều hơn ta đến 5 lần, Singapore nhiều hơn ta 12,5 lần.
Một số liệu khác còn “gây sốc” hơn: Trong 30 năm qua, số lượng các bài báo về y- sinh học của VN được công bố trên các tạp chí quốc tế trên dưới 300 bài, thì của Malaysia – 2.100 bài (gấp 7 lần), Thái Lan- 5.210 bài (gấp 14 lần), Singapore khoảng 7.000 bài (gấp 23 lần).
Nếu kết hợp cả số công trình đã được đăng với số người làm công tác khoa học- công nghệ (ta đông hơn Thái 5 lần) thì “sản phẩm trí tuệ” tính theo đầu người của ta bằng 1/25 của Thái (nói nôm na, một nhà khoa học của Thái tạo ra “sản phẩm trí tuệ bằng 25 nhà khoa học Việt). Một con số thật nghiệt ngã!!!. Số liệu này là của trước đây 5 năm. Hiện nay, khoảng cách về các số liệu trên ngắn lại, giữ nguyên hay dài hơn, tôi chưa có thời gian tìm hiểu, song dù sao thì sự chênh lệch cũng vẫn quá lớn.
Có ý kiến cho rằng các nhà khoa học công nghệ Việt Nam ít công trình được công bố chỉ vì không gửi đăng. Vì quá “biết mình biết người”? Vì những sự e ngại, rơi rớt từ thời đóng cửa? Vì ngoại ngữ yếu? Vì các thiết bị nghiên cứu còn lạc hậu nên số đo không được chấp nhận? Vì thành kiến của người nước ngoài đối với khoa học công nghệ VN? Vì chính sách của nhà nước, của ngành chưa thích hợp? Kinh phí nghèo nàn, đời sống quá khó khăn? Rất có thể có nhiều lý do làm “trí tuệ VN” chưa phát huy được, nhưng cũng có nhiều lý do mà các nhà khoa học VN không thể biện minh.
Tiêu chuẩn thứ 2 mang tính thực dụng hơn, là các bằng sáng chế phát minh đăng ký trên trường quốc tế. Đây là những con số tổng kết của năm 2009 của Tổ chức sở hữu trí tuệ quốc tế WIPO, mà VN là thành viên, thậm chí còn được khen ngợi là “thành viên hoạt động hiệu quả”, và cũng xin được chỉ trích những nước trong khu vực.
Kết quả có thể khiến một người tự trọng “đỏ bừng mặt”: Năm 2009, Singapore đăng ký 493 bằng phát minh, trong tổng số bằng của họ trong kho tàng phát minh của nhân loại (cũng tính đến hết năm 2009) là 4.959 bằng, của Malaysia tương ứng là 181 và 1.298, của Thái Lan là 39 và 519, của Philippin là 25 và 379, của Indonesia là 18 và 253, của Việt Nam là…2 và 14. Đọc những con số ấy, người Việt nào chẳng thấy rưng rưng, “cúi trông thẹn đất, ngửa trông thẹn trời”.
Cũng có thể mình có những phát minh gì còn “giữ lại để dùng” mà chưa công bố với thế giới chăng?
Tại sao sản phẩm trí tuệ của Việt Nam ít như vậy? Một đội ngũ hùng hậu với gần 2 triệu người làm KHCN, hàng vạn thạc sĩ, hàng vạn tiến sĩ, gần 2.000 GS, gần 6.000 Phó GS và hàng triệu cử nhân, kỹ sư, trung cấp kỹ thuật mà trong một năm chỉ đăng ký được có 2 phát minh được quốc tế chấp nhận thôi sao?
Bản báo về phát minh sáng chế của Canada có ghi chú: Số phát minh sáng chế hàng năm tuy phản ảnh một chỉ số sáng tạo nhưng đôi khi có thể không chính xác (đọc đến đây, tôi hy vọng có “lý do chính đáng” để yên tâm). Họ cho biết đó là những phát minh lớn, giá trị kinh tế cao song người ta không đăng ký, sợ bị lộ một bí quyết sản xuất lớn, làm nên sản phẩm đặc trưng chỉ mình mới có, các nước khác phải phụ thuộc vào mình.
Rất có thể như vậy, nhưng tôi chưa nghĩ ra là “bí quyết” gì khiến ta không đăng ký ?
Cũng có thể mình có những phát minh gì còn “giữ lại để dùng” mà chưa công bố với thế giới chăng?
Những quan điểm trên đây có thể nông cạn, chủ quan, “tự ti dân tộc” và đồng thời nguồn thông tin tiếp cận chắc chắn còn hạn chế. Rất mong được sự phản biện, trao đổi lại của bạn đọc, để từ việc tìm ra nguyên nhân của những yếu kém, chúng ta có những giải pháp khẳng định có tính thuyết phục về trí thông minh của người Việt?
MathVn.Com (Theo Tuần Việt Nam)


